1/15/2018

25 CON CHIP LÀM RUNG CHUYỂN THẾ GIỚI

Một danh sách gồm những con chíp sáng tạo, hấp dẫn và đáng học hỏi nhất.

Trong ngành thiết kế vi mạnh cũng như trong cuộc sống, thi thoảng những điều nhỏ nhặt cũng có thể làm nên những thay đổi lớn lao. Đem ước mơ của mình vào một vi mạch, khắc nó lên một miếng silic và sáng tạo nhỏ bé của bạn có thể là bước khởi đầu của một cuộc cách mạng công nghệ. Điều đó đã thành hiện thực với bộ vi xử lý Intel 8088, bộ nhớ RAM 4 kilobit của Mostek MK4096, bộ xử lý tín hiệu số Texas Instruments TMS32010...
Trong số rất nhiều con chip vĩ đại đã đi ra từ nhà máy xuyên suốt nửa thế kỷ của triều đại mạch tích hợp, có một nhóm nhỏ nổi bật. Thiết kế của chúng đã được chứng minh là rất tiên tiến, vươn ra khỏi các khuân mẫu, vượt trước thời đại, đáng để chúng ta tìm hiểu, ghi nhớ kỹ về chúng. Chỉ cần nói rằng chúng đã cho chúng ta những công nghệ giúp cho cuộc sống tẻ nhạt, ngắn ngủi của mỗi con người trong thế giới này có thêm giá trị. Danh sách 25 IC này xứng đáng vinh danh trên vị trí trang trọng nhất của ngôi nhà mà Jack Kilby Robert Noyce đã xây nên. Một số trong số chúng đã trở thành những biểu tượng bất diệt ví dụ như bộ đếm thời gian Signetics 555. Những thứ khác, chẳng hạn như bộ khuếch đại thuật toán Fairchild 741, trở thành những ví dụ kinh điển trong sách giáo khoa. Một số khác, giống như vi điều khiển PIC của Microchip Technology, đã thu về lợi nhuận hàng tỉ đô la và vẫn đang tiếp tục được bán ra. Một số ít, như bộ nhớ flash của Toshiba, đã tạo ra những thị trường mới. Và một, ít nhất, đã thành một biểu tượng trong văn hóa đại chúng. Chả hạn như MOS Technology 6502.

Những con chip này có điểm chung là chúng là một phần lý do tại sao các kỹ sư lại không bao giờ đủ.
Tất nhiên, một danh sách như thế này tất yếu sẽ gây tranh cãi. Một số có thể được đánh giá quá cao khi được đưa vào, một số khác lại là một sự thiếu sót khi không có mặt trong danh sách này. Tại sao không phải là bộ vi xử lý 8088 của Intel, không phải là 4004 (con chip đầu tiên) hoặc 8080 (vì nổi tiếng)? Hay tại sao không phải là bộ xử lý RCA 1802 của quân đội Mỹ vốn là bộ não của nhiều tàu vũ trụ? Danh sách này được lập không dựa trên một thành công thương mại hay một tiến bộ kỹ thuật quan trọng. Cũng không thể đưa vào những con chip quan trọng nhưng ít được sử dụng đến mức chỉ có năm kỹ sư thiết kế chúng sẽ nhớ đến. Thay vào đó, danh sách sẽ tập trung vào những con chip có tính độc đáo, hấp dẫn, có khả năng gây cảm hứng cao. Danh sách bao gồm nhiều loại chip khác nhau, đến từ cả các công ty có quy mô lớn hay nhỏ, đã được tạo ra từ lâu hoặc trong thời gian gần đây. Trên tất cả, đây là các IC có ảnh hưởng đến cuộc sống của rất nhiều người - con chip mà đã trở thành một phần của các thiết bị đột phá, tượng trưng cho các xu hướng công nghệ, hoặc chỉ đơn giản làm mọi người vui vẻ.

Mỗi con chip trong danh sách sẽ được mô tả như thế nào và tại sao nó lại là biểu tượng của sự sáng tạo, với ý kiến ​​của các kỹ sư và giám đốc điều hành của người đã sáng tạo ra nó. Danh sách 25 con chip này cũng không được đặt theo thứ tự thời gian, theo phân loại hoặc mức độ quan trọng; mà sẽ được xắp sếp sao cho dễ đọc nhất.

1. Bộ đếm tín hiệu NE555 Timer (1971)

IC NE555


Đó là mùa hè năm 1970 và nhà thiết kế chip Hans Camenzind có thể cho bạn biết một vài điều về các nhà hàng Trung Quốc: do văn phòng nhỏ bé của ông bị kẹp giữa hai nhà hàng Trung Quốc, nó nằm ở trung tâm thành phố Sunnyvale, Calif. Camenzind đang làm việc như một nhà tư vấn cho Signetics, một nhà sản xuất bán dẫn địa phương. Nền kinh tế đang trong tình trạng khó khăn. Ông kiếm được ít hơn 15.000 đô la Mỹ một năm, đã có vợ và bốn đứa con ở nhà. Ông thực sự cần làm ra cái gì đó tốt tốt. 

Và ông đã làm như vậy. Trong thực tế, một trong những con chip vĩ đại nhất mọi thời đại. 555 là một IC đơn giản mà có thể hoạt động như một bộ đếm thời gian hoặc một bộ tạo giao động. Nó đã trở thành một thiết bị bán dẫn bán chạy nhất, có mặt trong rất nhiều đồ gia dụng nhà bếp, đồ chơi, tàu vũ trụ, và hàng nghìn thứ khác.
 
"Và nó gần như không được thực hiện", Camenzind, người ở tuổi 75 (vào năm 2009) vẫn đang thiết kế những con chip, mặc dù không ở gần nhà hàng Trung Quốc nào nữa, cho biết.

Ý tưởng cho 555 đã đến với ông khi ông làm việc trên một hệ thống được gọi là một vòng khóa pha. Với một số sửa đổi, mạch có thể làm việc như là một bộ đếm thời đơn giản: Bạn sẽ kích hoạt nó và nó sẽ chạy trong một khoảng thời gian nhất định. Lúc đó không có chip nào giống như thế.

Ban đầu, bộ phận kỹ thuật của Signetics từ chối ý tưởng này. Vì công ty đã bán các linh kiện mà khách hàng có thể sử dụng để làm bộ định thời. 555 có thể chấm hết từ đây. Nhưng Camenzind vẫn kiên định. Ông tìm tới Art Fury, quản lý tiếp thị của Signetics. Fury thích nó ngay lập tức.

Camenzind đã dành gần một năm để thử nghiệm các nguyên mẫu trên các mạch test, vẽ các thành phần mạch trên giấy và cắt các tấm phim âm bản. "Tất cả đều được làm bằng tay, không dùng máy tính", ông nói. Thiết kế cuối cùng của ông có 23 transistor, 16 resistors và 2 diodes.

Khi 555 được tung ra thị trường vào năm 1971, nó đã gây náo động lớn. Năm 1975 Signetics đã được mua lại bởi Philips Semiconductors, bây giờ là NXP, họ cho biết có hàng tỷ IC 555 đã được bán ra. Ngay lúc này đây, các kỹ sư vẫn sử dụng 555 để tạo ra các môđun điện tử hữu ích cũng như ít hữu ích hơn như đèn "Knight Rider" dùng để trang trí lưới tản nhiện ô tô.

2. Texas Instruments TMC0281 - Bộ tổng hợp thoại (1978)

ET và TMC0281
Nếu không có TMC0281, E.T. sẽ không bao giờ có thể "gọi điện về nhà". Đó là vì TMC0281, bộ tổng hợp thoại đơn đầu tiên, là trái tim (hay nên gọi là miệng?) của Texas Instruments’ Speak & Spell - một món đồ chơi tập đọc. Trong bộ phim của đạo diễn Steven Spielberg, chú bé người ngoài hành tinh đã sử dụng nó để chế tạo bộ giao tiếp liên hành tinh của mình. (Trong bộ phim, E.T. cũng đồng thời sử dụng một cái móc áo, một bình cà phê và một cái máy cưa.)

TMC0281 chuyển đổi giọng nói bằng cách sử dụng một kỹ thuật gọi là mã hóa dự đoán tuyến tính; âm thanh xuất hiện như một sự kết hợp của tiếng ù, rít và tạch. Gene A. Frantz, một trong bốn kỹ sư thiết kế món đồ chơi và vẫn làm tại TI (năm 2009) cho biết, đó là một giải pháp đáng ngạc nhiên cho một thứ "không thể làm được trong một mạch tích hợp". Các biến thể của con chip này được sử dụng trong các máy chơi game thùng của Atari và Vào năm 2001, TI đã bán dòng chip tổng hợp thoại của mình cho Sensory, nó bị ngừng sản xuất vào cuối năm 2007. Nhưng nếu bạn cần phải thực hiện một cuộc gọi với thời gian rất lâu và khoảng các rất xa, bạn có thể tìm thấy món đồ chơi Speak & Spell trong điều kiện còn tốt trên eBay với giá khoảng US $ 50.

3. Bộ vi xử lý 6502 của MOS Technology (1975)

Bộ vi xử lý 6502 của MOS Technology trong Apple II
Khi một tên mọt công nghệ mũm mĩm lắp con chip này trên máy tính và khởi động nó, cả nhân loại đã tiến thêm một bước lớn. Tên mọt công nghệ này là Steve Wozniak, chiếc máy tính là Apple I và con chip là 6502, một bộ vi xử lý 8-bit được phát triển bởi MOS Technology. Con chip này tiếp tục trở thành bộ não chính của các máy tính tinh vi như Apple II, Commodore PET, và BBC Micro, chưa kể đến các hệ thống game như Nintendo và Atari. Chuck Peddle, một trong những người sáng tạo ra bộ vi xử lý này, nhớ lại khi họ giới thiệu chiếc 6502 tại một triển lãm thương mại năm 1975. "Chúng tôi có hai cái lọ thủy tinh chứa đầy chip", ông nói, "và tôi đã có vợ tôi ngồi đấy bán chúng." Hordes cho biết thêm. Lý do: 6502 không chỉ nhanh hơn đối thủ cạnh tranh của nó mà còn rẻ hơn, được bán với giá 25 USD trong khi 8080 của Intel và 6800 của Motorola đều đang được bán với giá gần 200 USD.

Theo Bill Mensch, người đã tạo ra chiếc 6502 cùng với Peddle, bộ tập lệnh rất nhỏ kết hợp với quy trình chế tạo tiên tiến đã đem lại "hiệu suất gấp 10 lần loại chip canh tranh tốt nhất với nó". 6502 buộc giá các bộ vi xử lý giảm xuống, giúp bắt đầu cuộc cách mạng máy tính cá nhân. Hiện nay, một số hệ thống nhúng vẫn sử dụng 6502. Thú vị hơn, 6502 là bộ não điện tử của Bender, một robot hư hỏng trong bộ phim hoạt hình "Futurama", được tiết lộ trong một tập phim vào năm 1999. 

4. Bộ xử lý tín hiệu số Texas Instruments TMS32010 (1983)

TMS32010
Bang Texas to lớn đã cho chúng ta rất nhiều điều tuyệt vời, bao gồm mũ 10 gallon, thịt gà nướng, Pepper Dr và có lẽ ít nổi bật hơn là chip xử lý tín hiệu số TMS32010. Được tạo ra bởi Texas Instruments, TMS32010 không phải là DSP (bộ xử lý tín hiệu số) đầu tiên (DSP-1 của Western Electric, được giới thiệu vào năm 1980), nhưng chắc chắn là DSP nhanh nhất. Nó có thể tính toán một phép nhân trong 200 nano giây, một thành tích làm cho các kỹ sư phải ồ lên. Hơn nữa, nó có thể thực hiện các chỉ thị từ cả ROM trong và RAM ngoài, trong khi các con chip cạnh tranh chỉ có chức năng của một DSP đóng hộp. Wanda Gass, thành viên của nhóm thiết kế vi xử lý, vẫn đang làm việc tại TI (năm 2009), cho biết: "Điều đó đã làm cho việc phát triển của chương trình (cho TMS32010) linh hoạt giống như với vi điều khiển và vi xử lý". Tại Mỹ, với giá 500 USD / chiếc, chip bán được khoảng 1000 chiếc ngay trong năm đầu tiên. Doanh số không ngừng tăng lên, và bộ xử lý trở thành một phần của các modem, thiết bị y tế và hệ thống quân sự. À, một thiết bị khác dùng tới nó là Julie của Worlds Wonder, một con búp bê đáng sợ kiểu Chucky, có thể hát và nói ("Chúng ta đang gây ồn quá không?"). Con chip này là con chip đầu tiên trong gia đình DSP cỡ lớn đã được sản xuất và tiếp tục được làm - một tài sản của TI.

5. Bộ vi xử lý PIC 16C84 (1993)

PIC16C84
Trở lại vào đầu những năm 1990, thế giới rộng lớn của vi điều khiển 8-bit chỉ thuộc về một công ty, Motorola đầy quyền uy. Theo sau, làm một đối thủ nho nhỏ với một cái tên khó nhận biết, Microchip Technology. Microchip phát triển PIC 16C84, kết hợp với một loại bộ nhớ gọi là EEPROM, nó có thể lập trình cho bộ nhớ chỉ đọc bằng cách "đốt" điện. Nó không cần tia cực tím để "đốt", cũng giống như tiền bối của nó, EPROM. "Bây giờ người dùng có thể thay đổi mã của họ ngay lập tức", Rod Drake, nhà thiết kế chính của PIC 16C84 và bây giờ là giám đốc của Microchip (năm 2009) cho biết. Thậm chí tốt hơn, với giá thành ít hơn US $ 5, hoặc bằng một phần tư chi phí của các lựa chọn thay thế, mà hầu hết trong số chúng đến từ, vâng là Motorola. Đó là sự khởi đầu của một dòng vi điều khiển đã giúp cho công ty sở hữu chúng trở thành siêu sao điện tử trong danh sách Fortune 500. Khoảng 6 tỷ con chip đã được bán, được sử dụng trong những bộ điều khiển công nghiệp, xe không người lái, các thiết bị thử thai kỹ thuật số, pháo hoa điều khiển bằng chip, đồ trang sức với đèn LED và một máy thăm dò bể phốt tên là Turd Alert.

6. Khuếch đại thuật toán Fairchild Semiconductor μA741 (1968)

μA741
Bộ khuếch đại thuật toán có vị trí rất quan trọng trong các thiết kế mạch điện tử tương tự. Ta luôn có thể sử dụng chúng, có thể lắp chúng vào với hầu hết mọi thứ, luôn có một cái gì đó kết hợp được với chúng. Các nhà thiết kế sử dụng chúng để chế tạo các bộ khuếch đại âm thanh và hình ảnh, bộ so sánh điện áp, bộ lọc dải chính xác và nhiều hệ thống khác là một phần của các thiết bị điện tử được dùng hàng ngày.

Năm 1963, một kỹ sư 26 tuổi tên là Robert Widlar đã thiết kế vi mạch op-amp đơn cực đầu tiên, μA702, tại Fairchild Semiconductor. Tại Mỹ, nó bán với giá 300 đô la Mỹ. Sau đó, Widlar tiếp tục với một thiết kế được cải thiện, μA709, cắt giảm chi phí đến 70 đô la và làm cho con chip thành công về mặt thương mại. Có câu chuyện được kể rằng, Widel yêu cầu tăng lương. Khi không được chấp thuận, anh nghỉ việc. National Semiconductor quá vui mừng khi thuê một chàng trai, người mà sau đó đã giúp thiết lập nên quy tắc thiết kế vi mạch tương tự toàn cầu. Năm 1967, Widlar đã tạo ra một op-amp tốt nhất từ trước tới nay của National, LM101.

Trong khi các nhà quản lý Fairchild lo lắng về sự cạnh tranh xuất hiện đột ngột, tại phòng thí nghiệm R & D của công ty, một người mới được tuyển, David Fullagar, đã kiểm tra LM101. Ông nhận ra rằng con chip, tuy rất tuyệt, nó có một vài nhược điểm. Để tránh sự biến dạng tần số nhất định, các kỹ sư phải gắn một tụ điện bên ngoài vào chip. Hơn nữa, đầu vào của IC, quá nhạy cảm với nhiễu, bởi vì các chất lượng không đồng đều của chất bán dẫn.

"Đầu vào trong khá tạm bợ", ông nói. 

Fullagar bắt tay vào thiết kế riêng của mình. Ông đã mở rộng những giới hạn về quy trình sản xuất chất bán dẫn vào thời điểm đó, kết hợp một tụ điện 30-picofarad vào trong chip. Bây giờ, làm thế nào để cải thiện đầu vào? Giải pháp này rất đơn giản - "Nó chỉ tự đến với tôi, tôi không biết tại sao, khi đang lái xe đến Tahoe" - và thêm vào một vài bóng bán dẫn . Mạch điện bổ sung làm bộ khuếch đại mượt mà và ổn định hơn từ con chip này tới con chip khác.

Fullagar trình thiết kế của mình cho người đứng đầu bộ phận R & D tại Fairchild, một người tên là Gordon Moore, đã gửi nó đến bộ phận thương mại của công ty. Các chip mới, μA741, sẽ trở thành tiêu chuẩn cho khuyến đại thuật toán. Con chip và các biến thể của nó được tạo ra bởi các đối thủ cạnh tranh của Fairchild - đã bán được hàng trăm triệu chiếc. Bây giờ, với giá 300 đô la - giá ban đầu của 702 - bạn có thể mua được khoảng một nghìn 741.

7. Bộ tạo sóng Intersil ICL8038 (khoảng năm 1983)

ICL8038

Rất nhiều người đã chế giễu về hiệu suất giới hạn của ICL8038 và sự hoạt động bất ổn định của nó. Con chip, một thiết bị tạo sóng dạng sin, sóng vuông, tam giác, răng cưa, và tạo xung, thực sự là một kẻ thất thường. Nhưng các kỹ sư đã nhanh chóng học cách sử dụng chip một cách ổn định, và 8038 đã trở thành một hit lớn, bán hàng được hàng trăm triệu chiếc và được sử dụng trong vô số ứng dụng, như bộ tổng hợp âm nhạc Moog nổi tiếng và chiếc "hộp màu xanh" mà các tay ma mãnh từng dùng để đánh bại các công ty điện thoại vào những năm 1980. Trong một phần trong tài liệu rất phổ biến của các công ty có tiêu đề "Mọi điều bạn luôn muốn biết về ICL8038" có câu hỏi mẫu: "Tại sao kết nối pin 7 với chân 8 cho hiệu suất nhiệt tốt nhất?" Intersil đã ngưng sản xuất 8038 vào năm 2002, nhưng những người yêu thích nó vẫn tìm thấy nó để tự làm những thứ như máy hiện sóng và đàn điện tử theremins.

8. IC truyền thông tin nối tiếp không đồng bộ (UART) Western Digital WD1402A (1971)

IC UART WD1402A
Gordon Bell nổi tiếng vì đã tung ra serie PDP của máy tính mini tại tập đoàn Digital Equipment  trong những năm 1960. Nhưng ông cũng phát minh ra một công nghệ ít được biết đến hơn nhưng không kém phần quan trọng: bộ thu / phát không đồng bộ phổ quát, hoặc UART. Bell cần một số mạch để kết nối một máy điện báo với PDP-1, một nhiệm vụ yêu cầu chuyển đổi các tín hiệu song song thành tín hiệu nối tiếp và ngược lại. Ông đã thực hiện bằng cách sử dụng một thứ gồm 50 thành phần riêng. Western Digital, một công ty nhỏ sản xuất chip máy tính, đã đề nghị tạo ra một con chíp đơn lẻ để thực hiện UART. Al Phillips - nhà sáng lập Western DIgital vẫn còn nhớ khi đó phó chủ tịch kỹ thuật đưa cho xem một bản thiết kế âm bản, đã sẵn sàng để sản xuất. "Tôi nhìn nó trong một phút và phát hiện ra một mạch điện mở," Phillips nói. "Ngài phó chủ tịch bị kích động mạnh". Western Digital đã giới thiệu WD1402A khoảng năm 1971 và một số phiên bản khác nhanh chóng theo sau. Bây giờ, UART được sử dụng rộng rãi trong modem, thiết bị ngoại vi máy tính và rất nhiều thiết bị khác.

9. Bộ xử lý Acorn ARM1 (1985)

Acorn Computers ARM1

Đầu những năm 1980, Acorn Computers là một công ty nhỏ với một sản phẩm lớn. Công ty có trụ sở tại Cambridge, Anh, đã bán được hơn 1,5 triệu máy tính để bàn BBC Micro. Đã đến lúc thiết kế một mẫu mới và các kỹ sư của Acorn đã quyết định tự chế tạo bộ vi xử lý 32-bit của mình. Họ gọi nó là Acorn RISC Machine, hoặc ARM. Các kỹ sư biết điều đó sẽ không dễ dàng; trên thực tế, họ gặp phải một rào cản lớn về mặt kỹ thuật của việc thiết kế và phải suýt phải hủy bỏ toàn bộ dự án. "Nhóm nghiên cứu quá nhỏ đến nỗi mọi quyết định thiết kế đều phải thiên về yêu cầu phải đơn giản - hoặc chúng tôi sẽ không bao giờ hoàn thành nó!" Steve Furber, hiện là giáo sư về kỹ thuật máy tính tại Đại học Manchester, nói. Cuối cùng, sự đơn giản đã tạo ra sự khác biệt. ARM nhỏ, điện năng thấp và dễ dàng lập trình. Sophie Wilson, người thiết kế bộ hướng dẫn, vẫn còn nhớ khi họ lần đầu tiên thử nghiệm chip trên máy tính. "Chúng tôi đánh lệnh 'PRINT PI' tại dấu nhắc, và nó đã đưa ra câu trả lời đúng", cô nói. Năm 1990, Acorn tách riêng bộ phận ARM, và kiến ​​trúc ARM đã chiếm vị trí thống trị trong các bộ vi xử lý 32-bit. Hơn 10.000.000 lõi ARM đã được sử dụng trong các loại thiết bị, bao gồm một trong những thất bại nhỏ của Apple, thiết bị cầm tay Newton và một trong những thành công vĩ đại, iPhone.

10. Cảm biến hình ảnh Kodak KAF-1300 (1986)
 
KAF-1300 trong Nikon F3

Được tung ra vào năm 1991, máy ảnh kỹ thuật số Kodak DCS 100 có giá 13.000 đô la Mỹ và cần phải có một thiết bị lưu trữ dữ liệu ngoài 5 kg mà người dùng phải mang trên vai. Trông giống một tên kỳ cục, nặng nề. Rõ ràng không phải là một khoảnh khắc Kodak. Tuy nhiên, thiết bị điện tử nằm trong body Nikon F3 - là một phần cứng ấn tượng: một con chip có kích thước nhỏ có thể chụp ảnh ở độ phân giải 1,3 megapixel, đủ để in với độ nét từ 5 đến 7 inch. Eric Stevens, nhà thiết kế chính của con chip này, người vẫn làm việc cho Kodak (2009) cho biết: "Vào thời điểm đó, 1 megapixel là một con số kỳ diệu".Con chip này - linh kiện tích điện kép hai pha thực - đã trở thành cơ sở cho các cảm biến CCD trong tương lai, giúp bắt đầu cuộc cách mạng nhiếp ảnh kỹ thuật số. Vậy nhưng, hình ảnh đầu tiên được chụp bằng KAF-1300 là gì? "Uh," Stevens nói, "chúng tôi chỉ chĩa thẳng cảm biến vào bức tường của phòng thí nghiệm."

11. Chip chơi cờ vua IBM Deep Blue 2 (1997)

Trận đấu cờ vua giữa Deep Blue 2 và Garry Kasparov

Ở một bên là 1,5 kg chất xám. Bên kia, 480 con chip cờ vua. Con người cuối cùng đã thất bại trước máy tính, vào năm 1997, khi máy tính chơi cờ vua của IBM, Deep Blue, đánh bại nhà đương kim vô địch thế giới, Garry Kasparov. Mỗi con chip của Deep Blue bao gồm 1,5 triệu bóng bán dẫn được sắp xếp thành các khối chuyên dụng như khối logic, bộ nhớ nước cờ, một số RAM và ROM. Từ đó, cỗ máy có thể đưa ra 200 triệu nước cờ mỗi giây. Sức mạnh của bộ vi xử lý, kết hợp với chức năng đánh giá tình huống thông minh, đã cho phép Deep Blue đưa ra rất nhiều lối tấn công - Kasparov gọi chúng là những nước cờ "không giống máy tính"."Chúng gây áp lực rất lớn về tâm lý", Feng-hsiung Hsu người "dạy" Deep Blue chơi cờ, hiện đang làm việc cho Microsoft, nhớ lại.

12. Bộ xử lý Transmeta Corp. Crusoe (2000)

Bộ xử lý Transmeta Corp. Crusoe

Với một sức mạnh vĩ đại cần đến bộ tản nhiệt khổng lồ kèm theo tuổi thọ pin ngắn và mức tiêu thụ điện điên rồ. Vì thế, mục tiêu thiết kế một bộ xử lý công suất thấp của Transmeta để đưa những những con chip vượt qua Intel và AMD thật đáng xấu hổ. Theo kế hoạch: Phần mềm sẽ dịch các tập lệnh x86 thật nhanh thành mã máy của riêng Crusoe, có mức độ song song cao sẽ tiết kiệm thời gian và công suất. Nó đã được thổi phồng là điều tuyệt vời nhất kể từ khi người ta lát mỏng được các miếng silic và trong một thời gian, nó đúng là như vậy. "Kỹ thuật đưa lên bộ vi xử lý vàng" là câu IEEE Spectrum đưa lên trang bìa của mình vào tháng 5 năm 2000. Crusoe và người kế nhiệm, Efficeon, "đã chứng minh rằng bản dịch nhị phân động là khả thi về mặt thương mại ", David Ditzel, người đồng sáng lập của Transmeta, cho biết. Thật không may, ông nói thêm, con chip tới sớm vài năm trước khi thị trường máy tính năng lượng thấp cất cánh. Cuối cùng, trong khi Transmeta đã không thực hiện được lời hứa của mình nên đã buộc Intel và AMD - thông qua bản quyền và kiện tụng - đã làm nguội nó.

13. Thiết bị phản chiếu siêu nhỏ kỹ thuật số của Texas Instruments (1987)

Thiết bị phản chiếu siêu nhỏ kỹ thuật số của Texas Instruments

Vào ngày 18 tháng 6 năm 1999, Larry Hornbeck đưa vợ ông, Laura đến xem phim Star Wars: Tập 1-The Phantom Menace tại một rạp chiếu phim ở Burbank, Calif. Ông không phải là kỹ sư mập mạp hâm mộ các Jedi. Lý do họ ở đó thực sự là vì chiếc máy chiếu. Nó sử dụng một con chip là thiết bị phản chiếu siêu nhỏ kỹ thuật số - mà Hornbeck đã phát minh ra tại Texas Instruments. Chip này sử dụng hàng triệu tấm gương siêu nhỏ có gắn bản lề để dẫn ánh sáng qua ống kính máy chiếu. Sau khi xem thử, Hornbeck, một thành viên của TI, cho biết "buổi trình diễn số đầu tiên của phim điện ảnh bom tấn". Hiện nay các máy chiếu phim đều sử dụng công nghệ xử lý ánh sáng kỹ thuật số này - hoặc DLP, như TI đã định danh nó - được sử dụng trong hàng ngàn rạp hát. Nó cũng được sử dụng trong các tivi chiếu hậu, máy chiếu văn phòng và máy chiếu cỡ nhỏ cho điện thoại di động. "Để diễn giải trò ảo thuật của  Houdini," Hornbeck nói, "Các tấm gương nhỏ, thưa các quý ông. Hiệu ứng được tạo ra với các tấm gương siêu nhỏ. "
 
14. Bộ vi xử lý Intel 8088 (1979)

Bộ vi xử lý Intel 8088

Con chip nào đã đưa Intel vào danh sách Fortune 500? Intel sẽ nói rằng đó là: 8088. Đây là CPU 16-bit mà IBM đã chọn cho dòng máy tính đầu tiên của mình và nó đã chiếm lĩnh thị trường máy tính để bàn.


Trong một vòng xoắn kỳ lạ của số phận, con chip đã thiết lập cái được gọi là kiến  ​​trúc x86 mà không có một số "86" trong cái tên của mình. 8088 về cơ bản chỉ là một bản cải tiến của 8086, CPU 16-bit đầu tiên của Intel. Hoặc là kỹ sư của Intel đã từng gọi nó, 8088 là "phiên bản bị thiến của 8086." Đó là bởi vì sự cải tiến chính của chip mới không phải là một bước tiến về mặt kỹ thuật: 8088 xử lý dữ liệu bằng các từ mã 16 bit, nhưng nó đã sử dụng một bus dữ liệu ngoại vi 8-bit.

Các nhà quản lý của Intel đã giữ bí mật dự án 8088 cho đến khi thiết kế 8086 hầu như hoàn tất. Peter A. Stoll, một kỹ sư hàng đầu của dự án 8086, người đã làm một số công việc với 8088, nói: "Ban giám đốc không muốn trì hoãn 8086  một ngày nào, thậm chí ngay cả khi chúng tôi nói với họ rằng đã có ý tưởng 8088"... "một ngày làm việc cật lực để sửa một lỗi vi mã, cái mà mất ba ngày để hoàn thành."

Chỉ sau khi con chip 8086 khả dụng đầu tiên ra đời, Intel mới gửi thiết kế và tài liệu 8086 cho một đơn vị thiết kế ở Haifa, Israel, nơi hai kỹ sư, Rafi Retter và Dany Star đã thay đổi con chip này sang bus 8-bit.

Sự sửa đổi này sau đó đã chứng tỏ nó là một trong những quyết định đúng đắn nhất của Intel. 8088 cần ít hơn 29.000 transitor so với 8086 do đó ít tốn kém hơn so với 8086 và đặc biệt là "tương thích hoàn toàn với phần cứng 8-bit, đồng thời cho khả năng xử lý nhanh hơn và sự chuyển đổi trơn chu hơn sang bộ vi xử lý 16-bit", Robert Noyce và Ted Hoff của Intel đã viết vào năm 1981 cho tạp chí Micro IEEE. 

Máy tính đầu tiên sử dụng 8088 là mẫu 5150 của IBM, một máy tính hiển thị đơn sắc có giá 3.000 đô la Mỹ. Hiện nay hầu hết các máy tính cá nhân trên thế giới đều được xây dựng xung quanh các CPU có tổ tiên là 8088. Không tệ đối với một con chip "bị thiến".

15.  Bộ giải mã MP3 Micronas Semiconductor MAS3507 (1997)

MAS3507
Trước khi iPod ra đời, chúng ta có PMP300 Diamond Rio. Chắc là bạn không nhớ đâu. Ra mắt vào năm 1998, PMP300 đã trở thành một cú hit ngay lập tức, nhưng sau đó đã mờ nhạt nhanh chóng, còn hơn cả Milli Vanilli (một ban nhạc Đức). Mặc dù vậy nó là chiếc máy nghe nhạc đáng chú ý. Nó chứa trong mình bộ giải mã MP3 MAS3507 - một bộ xử lý tín hiệu số dựa trên kiến trúc RISC với một bộ tập lệnh được tối ưu hóa cho việc nén và giải nén âm thanh. Con chip này được phát triển bởi Micronas đã cho phép Rio nhét hơn một chục bài hát vào bộ nhớ flash của nó - điều đáng buồn cười vào ngày nay nhưng đủ để cạnh tranh với các máy nghe nhạc CD cầm tay vào thời điểm đó. Thật nực cười đúng không ? Nhưng Rio và những người kế nhiệm nó đã mở đường cho iPod hiện nay và bây giờ bạn có thể mang theo hàng ngàn bài hát - gồm tất cả các album và video ca nhạc của Milli Vanilli - trong túi của bạn.

16. DRAM 4-Kilobit Mostek MK4096 (1973)
DRAM MK4096
Mostek không phải là hãng đầu tiên tung ra DRAM, đó là Intel. Nhưng chip DRAM 4 kilobit của Mostek đã mang lại một sự đổi mới quan trọng, với một thủ thuật gọi là ghép kênh theo địa chỉ, do Bob Proebsting và Mostek đồng phát minh. Về cơ bản, con chip này sử dụng cùng một chân để truy cập các hàng và cột của bộ nhớ bằng cách ghép tín hiệu định địa chỉ. Kết quả là, nó sẽ không cần nhiều chân hơn nếu mật độ ô nhớ tăng lên và có thể tiết kiệm chi phí sản xuất hơn. Chỉ có một vấn đề nhỏ về tính tương thích. 4096 sử dụng 16 chân, trong khi những bộ nhớ khác của Texas Instruments, Intel và Motorola có 22 chân. Điều xảy ra tiếp theo là một trong những cuộc đối đầu phi thường nhất trong lịch sử DRAM. Mostek đánh cược tương lai của mình trên con chip này, các giám đốc điều hành của nó đã đặt ra mục tiêu quảng bá tới khách hàng, đối tác, báo chí và cả nhân viên của mình. Fred K. Beckhusen, người đã được thuê để kiểm tra các thiết bị 4096, nhớ lại khi Proebsting và giám đốc điều hành LJ Sevin tới ca đêm của mình để tổ chức một buổi hội thảo vào lúc 2 giờ sáng. "Họ mạnh dạn dự đoán rằng trong sáu tháng sau sẽ không ai nghe hoặc quan tâm đến các loại DRAM 22 chân" Beckhusen nói. Họ đã đúng. MK4096 và những kẻ kế nhiệm nó trở thành DRAM thống trị trong nhiều năm liền.

17. FPGA Xilinx XC2064 (1985)

FPGA Xilinx XC2064
Quay trở lại đầu những năm 1980, các nhà thiết kế chip đã cố gắng tận dụng tối đa mỗi bóng bán dẫn trên các mạch của mình. Nhưng rồi Ross Freeman đã có một ý tưởng khá tiên tiến. Ông đã đưa ra một con chip chứa đầy các bóng bán dẫn hình thành nên các khối logic dễ dàng tùy biến và do đó có thể được cấu hình và tái cấu hình với phần mềm. Đôi khi một loạt transistors sẽ không được sử dụng - thật ngược đời! - nhưng Freeman đã đánh cược rằng định luật Moore sẽ làm cho bóng bán dẫn càng ngày rẻ đi. Đúng như vậy. "Để tiếp thị con chip, nó được gọi là một mảng cổng khả trình dạng trường, hoặc FPGA" - Freeman đồng sáng lập Xilinx. Khi sản phẩm đầu tiên của công ty, XC2064 xuất hiện năm 1985, các nhân viên được giao nhiệm vụ: họ phải vẽ bằng tay một mạch ví dụ bằng cách sử dụng các khối logic XC2064, giống như cách mà khách hàng của Xilinx khách sẽ làm. Bill Carter, cựu giám đốc công nghệ, nhớ lại khi được giám đốc điều hành Bernie Vonderschmitt tiếp cận, người mà đã nói với ông "có một chút khó khăn khi làm bài tập về nhà của mình." Carter chỉ là rất vui khi được giúp đỡ ông chủ. "Chúng tôi đã làm," ông nói, "với giấy và bút chì màu, làm việc theo sự phân công của Bernie!" Hôm nay FPGAs - bán ra bởi Xilinx và nhiều hãng khác - được sử dụng trong rất nhiều thứ không thể liệt kê hết trong bài này.

18. Bộ vi xử lý Zilog Z80 (1976)

Zilog Z80
Federico Faggin biết rõ loại tiền và số giờ làm việc cần thiết để đưa ra thị trường một bộ vi xử lý. Khi ở Intel, ông đã góp phần vào việc thiết kế nên hai mẫu vật tinh tế: 4004 nguyên bản, và 8080, của Altair danh tiếng. Vì vậy, khi ông thành lập Zilog với cựu đồng nghiệp của mình tại Intel, Ralph Ungermann, họ quyết định bắt đầu với một cái gì đó đơn giản hơn: một vi điều khiển đơn chip.

Faggin và Ungermann thuê một văn phòng ở trung tâm thành phố Los Altos, Calif, soạn thảo một kế hoạch kinh doanh và tìm kiếm vốn mạo hiểm. Họ ăn trưa tại siêu thị Safeway gần đó - "Pho mát Camembert va bánh qui", ông nhớ lại.

Nhưng hai kỹ sư sớm nhận ra rằng thị trường vi điều khiển đã trở nên đông đúc với các chip rất tốt. Thậm chí nếu họ làm tốt hơn so với những người khác, họ chỉ có lợi nhuận thấp - và tiếp tục phải ăn trưa bằng pho mát và bánh quy giòn. Zilog đã phải đặt mục tiêu cao hơn trên chuỗi thị trường để có tiếng nói hơn và dự án bộ vi xử lý Z80 đã ra đời.

Mục tiêu là phải làm tốt hơn 8080 và cũng phải cung cấp khả năng tương thích đầy đủ với phần mềm của 8080, để thu hút khách hàng rời khỏi Intel. Trong nhiều tháng, Faggin, Ungermann, và Masatoshi Shima, một kỹ sư khác của Intel, làm việc 80 giờ đồng hồ trên bảng, bản vẽ mạch của Z80. Faggin sớm biết rằng khi nói đến vi mạch, nhỏ đẹp là rất tốt nhưng nó có thể làm tổn thương đôi mắt của bạn.

"Cuối cùng, tôi phải đeo kính," anh nói. "Tôi bị cận thị." Nhóm nghiên cứu đã trải qua suốt một năm từ 1975 đến 1976. Vào tháng 3 năm đó, họ đã có một con chip nguyên mẫu. Z80 là một sản phẩm mang công nghệ MOS Technology’s 6502 đương thời và cũng giống như con chip đó, nó nổi bật không chỉ với thiết kế tao nhã mà còn vì giá rẻ (khoảng 25 đô la Mỹ). Tuy nhiên, việc đưa ra sản phẩm này cần nhiều sự thuyết phục. "Đó là một khoảng thời gian căng thẳng". Faggin cho biết.

Nhưng cuối cùng con chip đãn được bán. Z80 bán được hàng ngàn sản phẩm, có mặt trong máy tính Osborne I (máy tính di động đầu tiên, hoặc "máy tính xách tay cực nặng") và các dòng máy tính gia đình Radio Shack TRS-80 và MSX, cũng như máy in, máy fax, máy photocopy, modem và vệ tinh. Zilog vẫn tiếp tục làm Z80, phổ biến trong một số hệ thống nhúng. Trong một cấu hình cơ bản ngày hôm nay, nó tốn 5,73 đô la - thậm chí rẻ hơn một bữa ăn trưa với phô mai và bánh quy.

19. Bộ xử lý SPARC của Sun Microsystems (1987)
SPARC M8 hậu duệ của SPARC (ORACLE mua lại Sun và tiếp tục phát triển SPARC)
Đã có một thời gian dài (những năm 1980), khi mọi người mặc bộ quần áo ấm màu neon và xem Dallas, các kiến ​​trúc sư vi xử lý đã cố gắng làm tăng sự phức tạp của các tập lệnh CPU như một cách để có thêm câu lệnh được xử lý hơn trong mỗi một chu trình tính toán. Nhưng sau đó, một nhóm tại Đại học California, Berkeley, luôn là một pháo đài đối kháng, đã kêu gọi điều ngược lại: Đơn giản hóa bộ tập lệnh, họ nói, và bạn sẽ xử lý các tập lệnh với tốc độ nhanh, như vaayh bạn có số lệnh được xử lý nhiều hơn bù đắp cho việc có ít hơn lệnh xử lý với mỗi chu kỳ máy. Nhóm Berkeley, dẫn đầu bởi David Patterson, đã gọi phương pháp này là RISC, viết tắt của reduced-instruction-set computing (Máy tính với tập lệnh đơn giản hóa). 

Là một nghiên cứu học thuật, RISC nghe có vẻ tuyệt vời. Nhưng liệu nó có thể bán được nó không? Sun Microsystems đặt cược vào nó.Năm 1984, một nhóm nhỏ các kỹ sư của Sun đã phát triển một bộ xử lý RISC 32-bit được gọi là SPARC (viết tắt cho Scalable Processor Architecture - kiến trúc vi xử lý có thể mở rộng). Ý tưởng được sử dụng trong các chip cho một dòng máy trạm mới. Một hôm, Scott McNealy, sau đó là Giám đốc điều hành của Sun, đã xuất hiện tại phòng thí nghiệm phát triển SPARC. "Ông nói rằng SPARC sẽ đưa Sun từ một công ty có doanh thu 500 triệu đô la một năm lên một công ty hàng tỷ đô la một năm", Patterson, một chuyên gia tư vấn cho dự án của SPARC nhớ lại.

Nếu điều đó chưa đủ áp lực, nhiều người bên ngoài Sun đã bày tỏ sự nghi ngờ rằng công ty có thể làm được. Tệ hơn nữa, nhóm tiếp thị của Sun đã có một nhận định đáng sợ: SPARC đánh vần ngược lại là... CRAPS (một trò đánh bạc)! Các thành viên của nhóm đã phải thề rằng họ sẽ không nói gì với bất cứ ai thậm chí ngay cả người trong Sun - vì sợ rằng nó sẽ lọt vào tai các kiến trúc sư của MIPS Technologies, vốn cũng đang phát triển khái niệm RISC.

Phiên bản đầu tiên của SPARC tối giản bao gồm "một bộ xử lý chứa 20.000 cổng vào ra mà không có các chỉ dẫn nhân / chia số nguyên". Robert Garner, kiến ​​trúc sư hàng đầu của SPARC, và bây giờ là một nhà nghiên cứu của IBM, nói. Tuy nhiên, với tốc độ 10 triệu tập lệnh mỗi giây, nó chạy nhanh gấp 3 lần so với bộ vi xử lý máy tính với tập lệnh đầy đủ (CISC) cùng thời.

Sun sẽ sử dụng SPARC để tạo ra các máy trạm và máy chủ mang tới nhiều lợi nhuận trong những năm sau. Sản phẩm dựa trên SPARC đầu tiên, được giới thiệu vào năm 1987, là dòng sản phẩm máy chủ Sun-4, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và giúp đẩy doanh thu của công ty vượt qua mốc 1.000 tỷ đô la - giống như McNealy đã tiên đoán.

20. Khếch đại âm thanh Tripath Technology TA2020 (1998)

TA2020 người hùng trong các bộ âm ly
Có một nhóm nhỏ những người chơi đồ nghe nhạc yêu cầu những bộ khuếch đại dựa trên bóng chân không để tạo ra âm thanh chất lượng tốt nhất và sẽ luôn như vậy. Vì thế, khi có một số người trong cộng đồng mê âm tuyên bố rằng có một âm ly bán dẫn class D class được sản xuất bởi một công ty của Thung lũng Silicon được gọi là Tripath Technology, đưa ra âm thanh ấm áp và sôi động như âm ly đèn chân không, đây là một chuyện lớn. Bí quyết của Tripath là sử dụng hệ thống lấy mẫu 50 megahertz để điều khiển khuếch đại. Công ty khoe khoang rằng TA2020 hoạt động hiệu quả hơn và chi phí ít hơn nhiều so với bất kỳ âm ly bán dẫn nào. Khi đem ra trình diễn tại một hội chợ thương mại, "Chúng tôi đã chơi bài hát đó - cái bài rất lãng mạng trong phim Titanic" Adya Tripathi, người sáng lập Tripath, cho biết. Giống như hầu hết các âm ly class D, IC TA2020 sử dụng điện rất hiệu quả; nó không đòi hỏi một bộ tản nhiệt và có thể sắp xếp gọn gàng trong bo mạch. Với phân khúc giá thấp của Tripath, phiên bản 15W, TA220 được bán với giá 3 đô la Mỹ và đã được sử dụng trong các đài cacset và dàn âm thanh stereo loại nhỏ. Các phiên bản khác - có công suất lớn nhất đạt 1000 W được sử dụng trong các rạp hát gia đình, hệ thống âm thanh cao cấp và tivi của Sony, Sharp, Toshiba và nhiều hãng khác. Cuối cùng, các công ty bán dẫn lớn cũng đã bắt kịp, tạo ra những con chip tương tự và đưa Tripath vào quên lãng. Con chip này, dù sao đi chăng nữa, đã tạo ra một thứ tín ngưỡng với những người mê thiết bị âm thanh. Bộ kit làm âm ly và các sản phẩm dựa trên TA2020 vẫn sẵn hàng từ các công ty như Audio 41 Hz, Sure Electronics và Winsome Labs.

21. Chip Set ADSL Amati Communications Overture (1994)

Chip Set ADSL Amati Communications Overture
Bạn có nhớ khi DSL tới và bạn vứt modem 56,6 Kb / giây thảm hại vào thùng rác? Bạn và hai phần ba số người sử dụng băng thông rộng trên thế giới đang sử dụng DSL (năm 2009) nên cảm ơn Amati Communications, một start-up của trường đại học Stanford. Trong những năm 1990, nó đã đưa ra một phương pháp điều chế DSL được gọi là đa âm gián đoạn, hoặc là DMT. Nó, về cơ bản là một cách để tạo ra một đường dây điện thoại trông giống như hàng trăm kênh phụ và cải thiện việc truyền dẫn bằng cách sử dụng một giải thuật gọi là Robin Hood ngược. John Mio Cioffi, đồng sáng lập của Amati, và bây giờ là một giáo sư kỹ thuật tại Stanford, nói: "Các bit bị cướp từ những kênh nghèo nhất và được trao cho những kênh giàu có nhất". DMT đánh bại các giải pháp cạnh tranh - bao gồm cả những thứ từ những người khổng lồ như AT & T - và trở thành một chuẩn toàn cầu về DSL. Vào giữa những năm 1990, chip set DSL của Amati (một bộ tương tự, hai bộ số) được bán với số lượng khiêm tốn, nhưng đến năm 2000, khối lượng bán ra đã tăng lên hàng triệu. Vào đầu những năm 2000, doanh thu đã vượt quá 100 triệu chip mỗi năm.

22. Bộ vi xử lý Motorola MC68000 (1979)

Motorola MC68000
Motorola đã tới muộn trong bữa tiệc bộ vi xử lý 16-bit, vì vậy công ty đã quyết định đến với một phong cách khác. 68.000 transitor được đóng gói trong bộ xử lý lai 16/32 bit - MC68000, cao hơn gấp đôi so với 8086 của Intel. Nó có thanh ghi nội bộ 32-bit, nhưng một bus 32-bit sẽ làm cho giá thành tăng, vì vậy 68000 sử dụng địa chỉ 24-bit và đường dữ liệu 16-bit. 68000 dường như là bộ xử lý chính cuối cùng được thiết kế bằng cách sử dụng bút chì và giấy. "Tôi chuyển các bản sao thu nhỏ các biểu đồ, tài nguyên của các đơn vị chấp hành, các bộ giải mã và các khối điều khiển logic cho các thành viên khác của dự án" - Nick Tredennick, người đã thiết kế mảng logic của 68000, cho biết. Các bản sao thì nhỏ và khó đọc, và các đồng nghiệp của anh ấy phải căng mắt ra để đọc cho rõ ràng. Tredennick nhớ lại: "Một ngày nọ, tôi đến văn phòng của mình để tìm bản coppy các sưu đồ cỡ một thẻ tín dụng trên bàn". 68000 được tìm thấy trong tất cả các máy tính Macintosh đầu tiên, cũng như Amiga và Atari ST. Doanh số bán hàng phần lớn đến từ các ứng dụng nhúng trong máy in laze, máy game thùng, và bộ điều khiển công nghiệp. Nhưng 68000 cũng là chủ đề của một trong những điều đã lỡ lớn nhất trong lịch sử, Pete Best, một thành viên của nhóm thiết kế đã để mất vị trí tay trống cho Beatles. IBM muốn sử dụng 68000 cho dòng máy tính của mình, nhưng công ty này cuối cùng quyết định chọn 8088 của Intel vì lúc đó 68000 vẫn còn tương đối khan hiếm. Như một người quan sát sau đó đã nhận xét, nếu Motorola thắng thế trong phi vụ này, thì thay vì Windows-Intel (được gọi là Wintel) có thể là Winola.

23. Chipset Chips & Technologies AT (1985)
Chipset Chips & Technologies AT
Vào năm 1984, khi IBM giới thiệu dòng máy tính 80286 AT, công ty này đã nổi lên như là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến máy tính để bàn và tất nhiên họ luôn muốn duy trì sự thống trị của mình. Tuy nhiên, kế hoạch của Big Blue đã bị một công ty nhỏ gọi là Chips & Technologies, ở San Jose, Calif làm đảo lộn hoàn toàn. C&T phát triển năm con chip, nhái lại chức năng của bo mạch chủ AT vốn sử dụng khoảng 100 chip. Đảm bảo bộ chip tương thích với máy tính IBM, các kỹ sư của C&T đã tính toán rằng chỉ đó la việc duy nhất cần phải làm. Ravi Bhatnagar, trưởng nhóm thiết kế chipset và bây giờ là phó chủ tịch của tập đoàn Altierre, cho biết: "Chúng tôi có nhiều thứ làm bực mình nhưng cũng thực sự thú vị khi chơi điện tử trong nhiều tuần". Các con chip của C&T cho phép nhà sản xuất Acer của Đài Loan làm cho máy tính rẻ hơn và khởi động cuộc xâm lược máy tính nhái. Cuối cùng, Intel đã mua C & T vào năm 1997.

24. Bộ xử lý máy vi tính Cowboys Sh-Boom (1988)

Bộ xử lý máy vi tính Cowboys Sh-Boom
Hai nhà thiết kế chip đi vào một quán bar. Họ là Russell H. Fish III và Chuck H. Moore, quán bar họ đi vào có tên là Sh-Boom. Không, đây không phải là sự khởi đầu của một trò đùa. Nó thực sự là một phần của một câu chuyện công nghệ đầy bất hòa và kiện tụng, rất nhiều vụ kiện. Tất cả bắt đầu vào năm 1988 khi Fish và Moore tạo ra một bộ xử lý kỳ dị tên là Sh-Boom. Con chip này đã được sắp xếp rất hợp lý khiến nó có thể chạy nhanh hơn xung đồng hồ trên bảng mạch điều khiển phần còn lại của chiếc máy tính. Vì vậy, hai nhà thiết kế đã nỗ lực thanh công để tìm thấy một cách để bộ xử lý chạy với tốc độ đồng hồ nội bộ siêu nhanh của nó trong khi vẫn đồng bộ với phần còn lại của máy tính. Sh-Boom không bao giờ là một thành công thương mại, sau khi cấp bằng sáng chế cho các bộ phận sáng tạo của nó, Moore và Fish chia tay. Fish sau đó đã bán bản quyền bằng sáng chế của mình cho công ty Patriot Scientific có trụ sở tại Carlsbad, Calif, nó vẫn không mang đến món lợi nào cho công ty cho đến khi ban điều hành phát hiện ra: Trong những năm kể từ khi Sh-Boom được phát minh, tốc độ của bộ vi xử lý đã vượt xa so với tốc độ của bo mạch chủ, và vì thế hầu như mọi nhà sản xuất máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng đều sử dụng giải pháp giống như Fish và Moore đã được cấp bằng sáng chế. Tuyệt vời! Patriot đã tiến hành một loạt vụ kiện chống lại các công ty Hoa Kỳ và Nhật Bản. Cho dù các con chip của các công ty có dựa vào ý tưởng của Sh-Boom là một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng kể từ năm 2006, Patriot và Moore đã thu được hơn 125 triệu đô la Mỹ phí bản quyền từ Intel, AMD, Sony, Olympus và những hãng khác. Đối với cái tên Sh-Boom, Moore, bây giờ đang làm ở IntellaSys, Cupertino, Calif., Nói: "Nó được cho là bắt nguồn từ tên của một quán bar nơi Fish và tôi đã uống rượu Bourbon và viết bừa lên khăn ăn. Có chút sự thật trong câu chuyện đó. Nhưng tôi  thích cái tên ma Fish đã đề nghị."

25. Bộ nhớ flash NAND Toshiba (1989)

Toshiba NAND
The Saga là sáng chế của bộ nhớ flash bắt đầu khi một người quản lý nhà máy của Toshiba tên là Fujio Masuoka đã quyết định ông tái sáng tạo bộ nhớ bán dẫn. Chúng ta sẽ tiến hành việc đấy trong một phút sau đây. Thứ nhất, một bit trong lịch sử máy tính.

Trước khi bộ nhớ flash xuất hiện, cách duy nhất để lưu trữ dữ liệu lớn là sử dụng băng từ, đĩa mềm và đĩa cứng. Nhiều công ty đang cố gắng tạo ra các lựa chọn thay thế là bộ nhớ thể rắn (cái mà chúng ta thường gọi là SSD), nhưng các lựa chọn, chẳng hạn như bộ nhớ chỉ đọc EPROM (hoặc bộ nhớ chỉ đọc được, để xóa cần ánh sáng cực tím để xóa dữ liệu) và EEPROM (chữ E nghĩa là "điện" thay cho UV) không thể lưu trữ nhiều dữ liệu xét trên mặt kinh tế.

Năm 1980, Masuoka đã tuyển dụng bốn kỹ sư vào một dự án tuyệt mật nhằm thiết kế một con chip bộ nhớ có thể lưu trữ nhiều dữ liệu và có giá cả phải chăng. Chiến lược của họ rất đơn giản. Masuoka, hiện là CTO của Unisantis Electronics, Tokyo, nói: "Chúng tôi biết chi phí của con chip sẽ tiếp tục giảm xuống khi bóng bán dẫn thu nhỏ lại."

Nhóm của Masuoka đã đưa ra một biến thể của EEPROM với một tế bào nhớ bao gồm một bóng bán dẫn duy nhất. Vào thời điểm đó, EEPROM thông thường cần hai bóng bán dẫn trên mỗi tế bào. Đó là một sự khác biệt dường như nhỏ mà đã có một tác động rất lớn về chi phí.

Để tìm kiếm một cái tên hấp dẫn, họ quyết định chọn là "flash" vì khả năng xóa cực nhanh của chip. Bây giờ, nếu bạn nghĩ Toshiba sẽ đưa sáng chế này vào sản xuất và ngồi chơi xem tiền đổ vào túi, thì bạn không hiểu gì về cách các tập đoàn lớn thường đối xử với những đổi mới nội bộ. Khi nó xuất hiện, ông chủ của Masuoka tại Toshiba nói với ông ta, tốt, bỏ ý tưởng đấy đi.

Dĩ nhiên ông không làm như vậy. Năm 1984, ông trình bày một bài báo về thiết kế bộ nhớ của mình tại cuộc họp thiết bị điện tử quốc tế của IEEE, tại San Francisco. Điều đó giúp cho Intel bắt đầu phát triển một loại bộ nhớ flash dựa trên cổng logic NOR. Vào năm 1988, công ty đã giới thiệu một con chip 256 kilobit sử dụng trong xe cộ, máy tính và các mặt hàng khác trên thị trường đại chúng, tạo ra một thị trường tốt đẹp mới cho Intel.

Tất cả những điêu đó cuối cùng đã khiến Toshiba quyết định đưa ra thị trường phát minh của Masuoka. Chip flash của ông dựa trên công nghệ NAND, cung cấp mật độ lưu trữ lớn hơn nhưng tỏ ra khó khăn hơn trong sản xuất. Thành công đến vào năm 1989, khi NAND flash đầu tiên của Toshiba tung ra thị trường. Và như Masuoka đã dự đoán, giá của nó vẫn tiếp tục giảm.

Nhiếp ảnh kỹ thuật số đã phát triển mạnh vào cuối những năm 1990 và Toshiba trở thành một trong những công ty lớn nhất trong một thị trường trị giá nhiều tỷ đô la. Đồng thời, mối quan hệ của Masuoka với các giám đốc điều hành khác đã trở nên tồi tệ, ông đã bỏ việc tại Toshiba. (Sau đó ông khởi kiện công ty và được trả một món tiền mặt.)

Giờ đây, flash NAND flash là một phần quan trọng của tất cả chiếc điện thoại di động, máy ảnh, máy nghe nhạc và tất nhiên, các ổ đĩa USB mà các kỹ sư thích đeo quanh cổ của họ. "Tôi có 4 gigabyte," Masuoka nói. 

No comments:

Post a Comment