Về nguồn gốc của tiếng Việt có nhiều ý kiến khác nhau nhưng ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Việt nhất trí cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường nhánh Môn - Khơ me của họ Nam á. Về mặt từ vựng trong vốn từ của tiếng Việt có nhiều từ có nguồn gốc Môn - Khơ me các từ thuộc vào lớp từ cơ bản. Về mặt thanh điệu trong nhiều thứ tiếng ở Đông
Người ta chia quá trình phát triển tiếng Việt thành những giai đoạn phát triển khác nhau trong lịch sử. Giai đoạn đầu tiên được gọi là giai đoạn Môn - Khơme. Thời kỳ này cách đây 6 - 7 ngàn năm. Đây là thời kỳ tiếng Việt cùng các ngôn ngữ Môn - Khơme tách khỏi khối Nam Á nói chung. Sau giai đoạn Môn - Khơme, tiếng Việt chuyển sang giai đoạn tiền Việt - Mường, giai đoạn này là thời kỳ tiếng Việt cùng các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường hiện nay tách khỏi khối Môn - Khơme, phần còn lại của khối ấy hiện nay là các nhóm ngôn ngữ Ka Tu, Ba Na, Kha Mú... người ta ước tính thời kỳ tiền Việt - Mường kéo dài từ 2 - 3 ngàn năm trước công nguyên đến thế kỷ I và II sau công nguyên. Đây là thời kỳ tiếng Việt có một quá trình phát triển rực rỡ với nền văn hóa Đông Sơn, nền văn minh sông Hồng của người Việt. Nhờ sự phát triển của thời kỳ này, tiếng Việt góp phần làm cho nhà nước Văn Lang phát triển một cách vững chắc. Nhờ giai đoạn phát triển này mà về sau , dân tộc ta dù trải qua một thử thách nặng nề và lâu dài nhất - một ngàn năm Bắc thuộc - đất nước ta vẫn đứng vững. Trong 10 thế kỷ ấy kẻ xâm lược thực hiện chính sách đồng hóa gắt gao và có hệ thống nhằm xoá đi bản sắc văn hóa của dân tộc, xoá đi tiếng nói của dân tộc. Nhưng nhờ tiếng Việt đã có một giai đoạn phát triển tiền Việt - Mường đầy bản sắc, tiếng nói của dân tộc ta vẫn tiếp tục vươn lên đáp ứng vai trò là công cụ giao tiếp và tư duy của dân tộc.
Tiếp theo thời kỳ tiền Việt - Mường, tiếng Việt chuyển sang giai đoạn Việt - Mường cổ, đây là thời kỳ khối tiền Việt - Mường bắt đầu bị tách ra thành một bên là các ngôn ngữ Pọng, Chút, Mã liềng, Arem hiện nay và bên kia là tiếng Cuối, tiếng Mường và tiếng Việt hiện nay. Giai đoạn này ước từ thế kỷ thứ II đến quãng thế kỷ X, XI. Giai đoạn này là gia đoạn khó khăn nhất của lịch sử dân tộc nhưng người Việt đã là một cộng đồng dân tộc có cuộc sống vật chất và tinh thần ổn định, có nền văn hóa, có tiếng nói riêng và tương đối phát triển trong vùng. Suốt trong thời kỳ này người Việt luôn có ý thức dân tộc và tiếng Việt trong cộng đồng dân gian Việt có một sức sống mãnh liệt, đảm bảo cho sức sống dân tộc được trường tồn.
Từ giai đoạn Việt - Mường cổ, tiếng Việt chuyển sanggiai đoạn Việt - Mường chung. Lúc này tiếng Việt và tiếng Mường hiện nay là một khối chung thống nhất, là ngôn ngữ của thời kỳ Đại Việt độc lập, xây dựng nền tự chủ. Giai đoạn này có từ thế kỷ XI - XIII hoặc XIV, thời kỳ này tiếng Việt bắt đầu vay mượn những gì mình chưa có từ tiếng Hán để làm phong phú cho ngôn ngữ dân tộc, đủ sức đáp ứng nhiệm vụ là ngôn ngữ của một dân tộc độc lập và phát triển. ở vị thế độc lập và tự chủ này, tiếng Việt - Mường chung tiếp nhận một cách ồ ạt tiếng Hán và tạo thành một lớp từ Hán - Việt và cùng với lớp từ này là một cách đọc chữ Hán của người Việt, gọi là cách đọc Hán - Việt. Nhờ cách ứng xử này ngôn ngữ của dân tộc phát triển một cách đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu xây dựng một thượng tầng kiến trúc nhà nước phong kiến tương xứng với các nhà nước khác trong vùng. Tuy nhiên do hoàn cảnh địa lý khác nhau, sự vay mượn tiếp xúc này có khác nhau ở đồng bằng có điều kiện tiếp xúc hơn do đi lại dễ dàng hơn. Chính sự khác biệt này cho phép tiếng Việt chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn có sự khác biệt giữa đồng bằng và miền núi.
Giai đoạn đó được các nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Việt gọi là giai đoạn Việt cổ. Lúc này là lúc tiếng Việt và tiếng Mường tách rời thành hai ngôn ngữ độc lập, tiếng Việt và tiếng Mường riêng. Người ta ước định rằng thời kỳ này kéo dài từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, là thời kỳ tiếng Việt đã hoàn chỉnh sự vay mượn tiếng Hán để có một lớp từ Hán - Việt và cách đọc Hán - Việt. Có lẽ lúc này các từ triều đình, thượng thư, công chúa, quân đội...không còn xa lạ với tiếng Việt và nhờ vậy, nó đã góp phần xây dựng nhà nước phong kiến vững mạnh. Ngược lại phần kia của tiếng Việt - Mường chung - tiếng Mường không biết đến hoặc biết rất ít đến lớp từ Hán - Việt nên nó giữ được diện mạo của tiềng Mường hiện nay.
Tiếp theo giai đoạn Việt cổ, tiếng Việt phát triển sang giai đoạn Việt trung đại. Giai đoạn này ước chừng kéo dài từ thế kỷ XVI - XVII đến thế kỷ XIX. Thời kỳ này tiếng Việt đã có diện mạo của các vùng phương ngữ như ngày nay và đang phát triển dần về phương Nam theo con đường phát triển của dân tộc. Đây cũng là thời kỳ tiếng Việt bắt đầu có sự tiếp xúc với các ngôn ngữ phương Tây ( như Pháp, Bồ đào nha, Hà lan v.v... ) và người ta đã dùng chữ cái La tinh để ghi chép tiếng Việt ( từ điển Việt - Bồ La tinh của cha A. Đơ Rốt xuất bản ở Rôm năm 1651 ). Nhưng sự tiếp xúc này chưa có ảnh hưởng sâu rộng đối với cộng đồng đông đảo những người sử dụng tiếng Việt.
Từ thế kỷ XIX, tiếng Việt bước sang thời kỳ hiện đại nhưng quá trình phát triển của tiếng Việt ở giai đoạn này cũng không đồng đều ở các mặt làm nên một ngôn ngữ. Có thể nói ngữ âm là phương diện phát triển nhanh nhất. Truyện Kiều của Nguyễn Du cuối thế kỷ XVIII về cơ bản có cách đọc giống với cách đọc của chúng ta ngày nay, chứng tỏ về mặt ngữ âm tiếng Việt đã tương đối phát triển, nhưng về những phương diện khác, tiếng Việt khác xa với trạng thái hiện nay.
Không hay nó quá sơ sài! Cần tham khảo thêm!
ReplyDelete